On one occasion Ven. Ananda was staying near Vesali at Veluvagamaka. Now on that occasion Dasama the householder from Atthakanagara had arrived at Pataliputta on some business. Then he went to a certain monk at Kukkata Monastery and on arrival said to him:
-"Where is Ven. Ananda staying now? I'd like to see him."
-"Householder, the Ven. Ananda is staying near Vesali at Veluvagamaka."


Một thời, Tôn giả Ànanda trú ở Vesàli, tại làng Beluvagàmaka. Lúc bấy giờ, gia chủ Dasama, trú ở thành Atthaka, đă đi đến Pàtiliputta v́ một vài công việc. Rồi gia chủ Dasama, dân ở thành Atthaka đi đến một Tỷ-kheo, sau khi đến, thưa với Tỷ-kheo ấy:
- Thưa Tôn giả, Tôn giả Ànanda nay trú ở đâu ? Thưa Tôn giả, con muốn yết kiến Tôn giả Ànanda.
- Này Gia chủ, Tôn giả Ànanda nay trú ở Vesàli, tại làng Beluvagàmaka.

 

Then Dasama the householder from Atthakanagara, on completing his business at Pataliputta, went to Ven. Ananda at Veluvagamaka near Vesali. On arrival, having bowed down to him, he sat to one side. As he was sitting there, he said to Ven. Ananda:


Rồi gia chủ Dasama, dân ở thành Atthaka, sau khi làm công việc xong ở Pàtimokkha, đi đến Vesàli, Beluvagàmaka, đi đến Tôn giả Ànanda, sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ànanda rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, gia chủ Dasama, dân ở thành Atthaka thưa với Tôn giả Ànanda :

 

Venerable sir, is there a single quality declared by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened — where the unreleased mind of a monk who dwells there heedful, ardent, & resolute becomes released, or his unended fermentations go to their total ending, or he attains the unexcelled security from the yoke that he had not attained before?


Có một pháp nào, thưa Tôn giả Ànanda được Thế Tôn, bậc đă biết, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác khéo nói, chính ở nơi đây, Tỷ-kheo trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sẽ giải thoát tâm chưa được giải thoát, hay sẽ đưa đến chấm dứt các lậu hoặc chưa được đoạn tận, hay đạt được vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được ?

 

Yes, householder, there is a single quality declared by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened — where the unreleased mind of a monk who dwells there heedful, ardent, & resolute becomes released, or his unended fermentations go to their total ending, or he attains the unexcelled security from the yoke that he had not attained before.


Này Gia chủ, có một pháp, được Thế Tôn bậc đă biết, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác khéo nói, chính ở nơi đây, Tỷ-kheo trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sẽ giải thoát tâm chưa được giải thoát, hay sẽ đưa đến chấm dứt các lậu hoặc chưa được đoạn tận, hay đạt được vô thượng an ổn khỏi các ách khổ chưa đạt được.

 

And what is that one quality, venerable sir, is there a single quality declared by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened — where the unreleased mind of a monk who dwells there heedful, ardent, & resolute becomes released, or his unended fermentations go to their total ending, or he attains the unexcelled security from the yoke that he had not attained before?


Nhưng thưa Tôn giả Ànanda, một pháp ấy là ǵ, được Thế Tôn, bậc đă biết, bậc đă thấy, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác khéo thuyết, chính ở nơi đây, Tỷ-kheo trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sẽ giải thoát tâm chưa được giải thoát, hay sẽ đưa đến chấm dứt các lậu hoặc chưa được đoạn tận, hay đạt được vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được ?

 

There is the case, householder, where a monk, withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful qualities, enters & remains in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation. He reflects on this and discerns, 'This first jhana is fabricated & intended. Now whatever is fabricated & intended is inconstant & subject to cessation.' Staying right there, he reaches the ending of the mental fermentations. Or, if not, then — through this very Dhamma-passion, this Dhamma-delight, and from the total wasting away of the first five Fetters1 — he is due to be reborn [in the Pure Abodes], there to be totally unbound, never again to return from that world.


Ở đây, này Gia chủ, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú Thiên thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Vị ấy quán sát như sau : "Thiền thứ nhất này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm". Phàm cái ǵ thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm, vị ấy quán tri : "Cái ǵ là vô thường, chịu sự đoạn diệt". Vị ấy an trú ở đấy, đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc. Nếu không đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc, với tham ái ấy đối với Pháp, với hoan hỷ ấy đối với Pháp, với sự đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh, tại đấy nhập Niết-bàn, không c̣n phải trở lui thế giới ấy nữa.

 

This, householder, is a single quality declared by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened — where the unreleased mind of a monk who dwells there heedful, ardent, & resolute becomes released, or his unended fermentations go to their total ending, or he attains the unexcelled security from the yoke that he had not attained before.


Này Gia chủ, đây là một pháp này, được Thế Tôn, bậc đă biết, bậc đă thấy, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác khéo thuyết, chính ở nơi đây, Tỷ-kheo trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sẽ giải thoát tâm chưa được giải thoát, hay sẽ đưa đến chấm dứt các lậu hoặc chưa được đoạn tận, hay đạt được vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.

 

Furthermore, there is the case where a monk, with the stilling of directed thought & evaluation, enters & remains in the second jhana: rapture & pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought & evaluation. He reflects on this and discerns, 'This second jhana is fabricated & intended. Now whatever is fabricated & intended is inconstant & subject to cessation.' Staying right there, he reaches the ending of the mental fermentations. Or, if not, then — through this very Dhamma-passion, this Dhamma-delight, and from the total wasting away of the first five Fetters1 — he is due to be reborn [in the Pure Abodes], there to be totally unbound, never again to return from that world.


Lại nữa, này các Hiền giả, vị Tỷ kheo diệt tầm và tứ, chứng và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm. Vị ấy quán sát như sau : "Thiền thứ hai này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm". Phàm cái ǵ thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm, vị ấy quán tri : "Cái ǵ là vô thường, chịu sự đoạn diệt". Vị ấy an trú ở đấy, đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc. Nếu không đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc, với tham ái ấy đối với Pháp, với hoan hỷ ấy đối với Pháp, với sự đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh, tại đấy nhập Niết-bàn, không c̣n phải trở lui thế giới ấy nữa.

 

This, householder, is a single quality declared by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened — where the unreleased mind of a monk who dwells there heedful, ardent, & resolute becomes released, or his unended fermentations go to their total ending, or he attains the unexcelled security from the yoke that he had not attained before.


Này Gia chủ, đây là một pháp, được Thế Tôn, bậc đă biết, bậc đă thấy, bậc A-la-hán, , Chánh Đẳng Giác khéo thuyết, chính ở nơi đây, Tỷ-kheo trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sẽ giải thoát tâm chưa được giải thoát, hay sẽ đưa đến chấm dứt các lậu hoặc chưa được đoạn tận, hay đạt được vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.

 

Furthermore, there is the case where a monk, with the fading of rapture, remains in equanimity, mindful & alert, is physically sensitive to pleasure, and enters & remains in the third jhana, of which the Noble Ones declare, 'Equanimous & mindful, he has a pleasurable abiding. He reflects on this and discerns, This third jhana is fabricated & intended. Now whatever is fabricated & intended is inconstant & subject to cessation.' Staying right there, he reaches the ending of the mental fermentations. Or, if not, then — through this very Dhamma-passion, this Dhamma-delight, and from the total wasting away of the first five Fetters — he is due to be reborn [in the Pure Abodes], there to be totally unbound, never again to return from that world.


Lại nữa, này các Hiền giả, vị tỷ kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba. Vị ấy quán sát như sau : "Thiền thứ ba này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm". Phàm cái ǵ thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm, vị ấy quán tri : "Cái ǵ là vô thường, chịu sự đoạn diệt". Vị ấy an trú ở đấy, đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc. Nếu không đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc, với tham ái ấy đối với Pháp, với hoan hỷ ấy đối với Pháp, với sự đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh, tại đấy nhập Niết-bàn, không c̣n phải trở lui thế giới ấy nữa.

 

This, householder, is a single quality declared by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened — where the unreleased mind of a monk who dwells there heedful, ardent, & resolute becomes released, or his unended fermentations go to their total ending, or he attains the unexcelled security from the yoke that he had not attained before.


Này Gia chủ, đây là một pháp, được Thế Tôn, bậc đă biết, bậc đă thấy, bậc A-la-hán, , Chánh Đẳng Giác khéo thuyết, chính ở nơi đây, Tỷ-kheo trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sẽ giải thoát tâm chưa được giải thoát, hay sẽ đưa đến chấm dứt các lậu hoặc chưa được đoạn tận, hay đạt được vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.

 

Furthermore, there is the case where a monk, with the abandoning of pleasure & stress — as with the earlier disappearance of elation & distress — enters & remains in the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither-pleasure-nor-pain. He reflects on this and discerns, This fourth jhana is fabricated & intended. Now whatever is fabricated & intended is inconstant & subject to cessation. Staying right there, he reaches the ending of the mental fermentations. Or, if not, then — through this very Dhamma-passion, this Dhamma-delight, and from the total wasting away of the first five Fetters — he is due to be reborn [in the Pure Abodes], there to be totally unbound, never again to return from that world.


Lại nữa, này các Hiền giả, vị tỷ kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ từ trước , chứng và trú Thiền thứ tư không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Vị ấy quán sát như sau : "Thiền thứ tư này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm". Phàm cái ǵ thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm, vị ấy quán tri : "Cái ǵ là vô thường, chịu sự đoạn diệt". Vị ấy an trú ở đấy, đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc. Nếu không đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc, với tham ái ấy đối với Pháp, với hoan hỷ ấy đối với Pháp, với sự đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh, tại đấy nhập Niết-bàn, không c̣n phải trở lui thế giới ấy nữa.

 

This, householder, is a single quality declared by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened — where the unreleased mind of a monk who dwells there heedful, ardent, & resolute becomes released, or his unended fermentations go to their total ending, or he attains the unexcelled security from the yoke that he had not attained before.


Này Gia chủ, đây là một pháp, được Thế Tôn, bậc đă biết, bậc đă thấy, bậc A-la-hán, , Chánh Đẳng Giác khéo thuyết, chính ở nơi đây, Tỷ-kheo trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sẽ giải thoát tâm chưa được giải thoát, hay sẽ đưa đến chấm dứt các lậu hoặc chưa được đoạn tận, hay đạt được vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.

 

Then again, a monk keeps pervading the first direction2 with an awareness imbued with good will, likewise the second, likewise the third, likewise the fourth. Thus above, below, & all around, everywhere, in its entirety, he keeps pervading the all-encompassing cosmos with an awareness imbued with good will — abundant, expansive, immeasurable, without hostility, without ill will. He reflects on this and discerns, 'This awareness-release through good will is fabricated & intended. Now whatever is fabricated & intended is inconstant & subject to cessation.' Staying right there, he reaches the ending of the mental fermentations. Or, if not, then — through this very Dhamma-passion, this Dhamma-delight, and from the total wasting away of the first five Fetters — he is due to be reborn [in the Pure Abodes], there to be totally unbound, never again to return from that world.


Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo với tâm câu hữu với từ an trú biến măn một phương ; như vậy phương thứ hai ; như vậy phương thứ ba ; như vậy phương thứ tư ; như vậy cùng khắp thế giới trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến măn với tâm cầu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy quán sát như sau : "Từ tâm giải thoát này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm". Phàm cái ǵ thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm, vị ấy quán tri : "Cái ǵ là vô thường, chịu sự đoạn diệt". Vị ấy an trú ở đấy, đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc. Nếu không đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc, với tham ái ấy đối với Pháp, với hoan hỷ ấy đối với Pháp, với sự đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh, tại đấy nhập Niết-bàn, không c̣n trở lui thế giới ấy nữa.

 

This, householder, is a single quality declared by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened — where the unreleased mind of a monk who dwells there heedful, ardent, & resolute becomes released, or his unended fermentations go to their total ending, or he attains the unexcelled security from the yoke that he had not attained before.


Này Gia chủ, đây là một pháp, được Thế Tôn, bậc đă biết, bậc đă thấy, bậc A-la-hán, , Chánh Đẳng Giác khéo thuyết, chính ở nơi đây, Tỷ-kheo trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sẽ giải thoát tâm chưa được giải thoát, hay sẽ đưa đến chấm dứt các lậu hoặc chưa được đoạn tận, hay đạt được vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.

 

Then again, a monk keeps pervading the first direction with an awareness imbued with through compassion, likewise the second, likewise the third, likewise the fourth. Thus above, below, & all around, everywhere, in its entirety, he keeps pervading the all-encompassing cosmos with an awareness imbued with through compassion — abundant, expansive, immeasurable, without hostility, without ill will. He reflects on this and discerns, 'This awareness-release through compassion is fabricated & intended. Now whatever is fabricated & intended is inconstant & subject to cessation.' Staying right there, he reaches the ending of the mental fermentations. Or, if not, then — through this very Dhamma-passion, this Dhamma-delight, and from the total wasting away of the first five Fetters — he is due to be reborn [in the Pure Abodes], there to be totally unbound, never again to return from that world.


Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo với tâm câu hữu với bi an trú biến măn một phương ; như vậy phương thứ hai ; như vậy phương thứ ba ; như vậy phương thứ tư ; như vậy cùng khắp thế giới trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến măn với tâm cầu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy quán sát như sau : "Bi tâm giải thoát này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm". Phàm cái ǵ thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm, vị ấy quán tri : "Cái ǵ là vô thường, chịu sự đoạn diệt". Vị ấy an trú ở đấy, đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc. Nếu không đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc, với tham ái ấy đối với Pháp, với hoan hỷ ấy đối với Pháp, với sự đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh, tại đấy nhập Niết-bàn, không c̣n trở lui thế giới ấy nữa.

 

This too, householder, is a single quality declared by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened — where the unreleased mind of a monk who dwells there heedful, ardent, & resolute becomes released, or his unended fermentations go to their total ending, or he attains the unexcelled security from the yoke that he had not attained before.


Này Gia chủ, đây là một pháp, được Thế Tôn, bậc đă biết, bậc đă thấy, bậc A-la-hán, , Chánh Đẳng Giác khéo thuyết, chính ở nơi đây, Tỷ-kheo trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sẽ giải thoát tâm chưa được giải thoát, hay sẽ đưa đến chấm dứt các lậu hoặc chưa được đoạn tận, hay đạt được vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.

 

Then again, a monk keeps pervading the first direction with an awareness imbued with through appreciation, likewise the second, likewise the third, likewise the fourth. Thus above, below, & all around, everywhere, in its entirety, he keeps pervading the all-encompassing cosmos with an awareness imbued with through appreciation — abundant, expansive, immeasurable, without hostility, without ill will. He reflects on this and discerns, 'This awareness-release through appreciation is fabricated & intended. Now whatever is fabricated & intended is inconstant & subject to cessation.' Staying right there, he reaches the ending of the mental fermentations. Or, if not, then — through this very Dhamma-passion, this Dhamma-delight, and from the total wasting away of the first five Fetters — he is due to be reborn [in the Pure Abodes], there to be totally unbound, never again to return from that world.


Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo với tâm câu hữu với hỷ an trú biến măn một phương ; như vậy phương thứ hai ; như vậy phương thứ ba ; như vậy phương thứ tư ; như vậy cùng khắp thế giới trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến măn với tâm cầu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy quán sát như sau : "Hỷ tâm giải thoát này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm". Phàm cái ǵ thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm, vị ấy quán tri : "Cái ǵ là vô thường, chịu sự đoạn diệt". Vị ấy an trú ở đấy, đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc. Nếu không đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc, với tham ái ấy đối với Pháp, với hoan hỷ ấy đối với Pháp, với sự đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh, tại đấy nhập Niết-bàn, không c̣n trở lui thế giới ấy nữa.

 

This too, householder, is a single quality declared by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened — where the unreleased mind of a monk who dwells there heedful, ardent, & resolute becomes released, or his unended fermentations go to their total ending, or he attains the unexcelled security from the yoke that he had not attained before.


Này Gia chủ, đây là một pháp, được Thế Tôn, bậc đă biết, bậc đă thấy, bậc A-la-hán, , Chánh Đẳng Giác khéo thuyết, chính ở nơi đây, Tỷ-kheo trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sẽ giải thoát tâm chưa được giải thoát, hay sẽ đưa đến chấm dứt các lậu hoặc chưa được đoạn tận, hay đạt được vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.

 

Then again, a monk keeps pervading the first direction with an awareness imbued with through equanimity, likewise the second, likewise the third, likewise the fourth. Thus above, below, & all around, everywhere, in its entirety, he keeps pervading the all-encompassing cosmos with an awareness imbued with through equanimity — abundant, expansive, immeasurable, without hostility, without ill will. He reflects on this and discerns, 'This awareness-release through equanimity is fabricated & intended. Now whatever is fabricated & intended is inconstant & subject to cessation.' Staying right there, he reaches the ending of the mental fermentations. Or, if not, then — through this very Dhamma-passion, this Dhamma-delight, and from the total wasting away of the first five Fetters — he is due to be reborn [in the Pure Abodes], there to be totally unbound, never again to return from that world.


Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo với tâm câu hữu với xả an trú biến măn một phương ; như vậy phương thứ hai ; như vậy phương thứ ba ; như vậy phương thứ tư ; như vậy cùng khắp thế giới trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến măn với tâm cầu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Vị ấy quán sát như sau : "Xả tâm giải thoát này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm". Phàm cái ǵ thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm, vị ấy quán tri : "Cái ǵ là vô thường, chịu sự đoạn diệt". Vị ấy an trú ở đấy, đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc. Nếu không đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc, với tham ái ấy đối với Pháp, với hoan hỷ ấy đối với Pháp, với sự đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh, tại đấy nhập Niết-bàn, không c̣n trở lui thế giới ấy nữa.

 

This too, householder, is a single quality declared by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened — where the unreleased mind of a monk who dwells there heedful, ardent, & resolute becomes released, or his unended fermentations go to their total ending, or he attains the unexcelled security from the yoke that he had not attained before.


Này Gia chủ, đây là một pháp, được Thế Tôn, bậc đă biết, bậc đă thấy, bậc A-la-hán, , Chánh Đẳng Giác khéo thuyết, chính ở nơi đây, Tỷ-kheo trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sẽ giải thoát tâm chưa được giải thoát, hay sẽ đưa đến chấm dứt các lậu hoặc chưa được đoạn tận, hay đạt được vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.

 

Then again, a monk — with the complete transcending of perceptions of [physical] form, with the disappearance of perceptions of resistance, and not heeding perceptions of diversity, thinking, 'Infinite space' — enters & remains in the dimension of the infinitude of space. He reflects on this and discerns, 'This attainment of the infinitude of space is fabricated & intended. Now whatever is fabricated & intended is inconstant & subject to cessation.' Staying right there, he reaches the ending of the mental fermentations. Or, if not, then — through this very Dhamma-passion, this Dhamma-delight, and from the total wasting away of the first five Fetters — he is due to be reborn [in the Pure Abodes], there to be totally unbound, never again to return from that world.


Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo vượt qua một cách hoàn toàn các sắc tưởng, chấm dứt các tưởng chướng ngại, không tác ư các tưởng sai biệt, nghĩ rằng : "Hư không là vô biên", chứng đạt và an trú Không vô biên xứ. Vị ấy quán sát như sau : "Chứng đắc Không vô biên xứ này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm". Phàm cái ǵ thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm, vị ấy quán tri : "Cái ǵ là vô thường, chịu sự đoạn diệt". Vị ấy an trú ở đấy, đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc. Nếu không đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc, với tham ái ấy đối với Pháp, với hoan hỷ ấy đối với Pháp, với sự đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh, tại đấy nhập Niết-bàn, không c̣n trở lui thế giới ấy nữa.

 

This too, householder, is a single quality declared by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened — where the unreleased mind of a monk who dwells there heedful, ardent, & resolute becomes released, or his unended fermentations go to their total ending, or he attains the unexcelled security from the yoke that he had not attained before.


Này Gia chủ, đây là một pháp này, được Thế Tôn, bậc đă biết, bậc đă thấy, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác khéo thuyết, chính ở nơi đây, Tỷ-kheo trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sẽ giải thoát tâm chưa được giải thoát, hay sẽ đưa đến chấm dứt các lậu hoặc chưa được đoạn tận, hay đạt được vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.

 

Then again, a monk — with the complete transcending of the dimension of the infinitude of space, thinking, 'Infinite consciousness,' enters & remains in the dimension of the infinitude of consciousness. He reflects on this and discerns, This attainment of the 'Infinite consciousness is fabricated & intended. Now whatever is fabricated & intended is inconstant & subject to cessation.' Staying right there, he reaches the ending of the mental fermentations. Or, if not, then — through this very Dhamma-passion, this Dhamma-delight, and from the total wasting away of the first five Fetters — he is due to be reborn [in the Pure Abodes], there to be totally unbound, never again to return from that world.


Lại nữa, này Gia chủ, sau khi vượt Không vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng : "Thức là vô biên, chứng đạt và an trú Thức vô biên xứ. Vị ấy quán sát như sau: "Chứng đắc Thức vô biên xứ này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm". Phàm cái ǵ thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm, vị ấy quán tri : "Cái ǵ là vô thường, chịu sự đoạn diệt". Vị ấy an trú ở đấy, đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc. Nếu không đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc, với tham ái ấy đối với Pháp, với hoan hỷ ấy đối với Pháp, với sự đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh, tại đấy nhập Niết-bàn, không c̣n trở lui thế giới ấy nữa.

 

This too, householder, is a single quality declared by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened — where the unreleased mind of a monk who dwells there heedful, ardent, & resolute becomes released, or his unended fermentations go to their total ending, or he attains the unexcelled security from the yoke that he had not attained before.


Này Gia chủ, đây là một pháp này, được Thế Tôn, bậc đă biết, bậc đă thấy, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác khéo thuyết, chính ở nơi đây, Tỷ-kheo trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sẽ giải thoát tâm chưa được giải thoát, hay sẽ đưa đến chấm dứt các lậu hoặc chưa được đoạn tận, hay đạt được vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.

 

Then again, a monk — with the complete transcending of the dimension of the infinitude of consciousness, thinking, 'There is nothing,' enters & remains in the dimension of nothingness. He reflects on this and discerns, 'This attainment of the dimension of nothingness is fabricated & intended. Now whatever is fabricated & intended is inconstant & subject to cessation.' Staying right there, he reaches the ending of the mental fermentations. Or, if not, then — through this very Dhamma-passion, this Dhamma-delight, and from the total wasting away of the first five Fetters — he is due to be reborn [in the Pure Abodes], there to be totally unbound, never again to return from that world.


Lại nữa, này Gia chủ, sau khi vượt Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng : "Vô sở hữu xứ", chứng đạt và an trú Vô sở hữu xứ. Vị ấy quán sát như sau : "Chứng đắc Vô sở hữu xứ này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm". Phàm cái ǵ thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm, vị ấy quán tri : "Cái ǵ là vô thường, chịu sự đoạn diệt". Vị ấy an trú ở đấy, đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc. Nếu không đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc, với tham ái ấy đối với Pháp, với hoan hỷ ấy đối với Pháp, với sự đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh, tại đấy nhập Niết-bàn, không c̣n trở lui thế giới ấy nữa

 

This too, householder, is a single quality declared by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened — where the unreleased mind of a monk who dwells there heedful, ardent, & resolute becomes released, or his unended fermentations go to their total ending, or he attains the unexcelled security from the yoke that he had not attained before.


Này Gia chủ, đây là một pháp này, được Thế Tôn, bậc đă biết, bậc đă thấy, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác khéo thuyết, chính ở nơi đây, Tỷ-kheo trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sẽ giải thoát tâm chưa được giải thoát, hay sẽ đưa đến chấm dứt các lậu hoặc chưa được đoạn tận, hay đạt được vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.

 

Then again, a monk — with the complete transcending of the dimension of nothingness, enters & remains in the dimension of neither perception nor non-perception. He reflects on this and discerns, 'This attainment of the dimension of neither perception nor non-perception is fabricated & intended. Now whatever is fabricated & intended is inconstant & subject to cessation.' Staying right there, he reaches the ending of the mental fermentations. Or, if not, then — through this very Dhamma-passion, this Dhamma-delight, and from the total wasting away of the first five Fetters — he is due to be reborn [in the Pure Abodes], there to be totally unbound, never again to return from that world.


Lại nữa, này Gia chủ, Tỷ-kheo vượt khỏi Vô sở hữu xứ một cách hoàn toàn, chứng và trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Vị ấy quán sát như sau : "Chứng đắc Phi tưởng phi phi tưởng xứ này thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm". Phàm cái ǵ thuộc tăng thượng tác thành, thuộc tăng thượng tâm, vị ấy quán tri : "Cái ǵ là vô thường, chịu sự đoạn diệt". Vị ấy an trú ở đấy, đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc. Nếu không đạt được sự đoạn diệt các lậu hoặc, với tham ái ấy đối với Pháp, với hoan hỷ ấy đối với Pháp, với sự đoạn diệt năm hạ phần kiết sử, vị ấy được hóa sanh, tại đấy nhập Niết-bàn, không c̣n trở lui thế giới ấy nữa.

 

This too, householder, is a single quality declared by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened — where the unreleased mind of a monk who dwells there heedful, ardent, & resolute becomes released, or his unended fermentations go to their total ending, or he attains the unexcelled security from the yoke that he had not attained before.


Này Gia chủ, đây là một pháp này, được Thế Tôn, bậc đă biết, bậc đă thấy, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác khéo thuyết, chính ở nơi đây, Tỷ-kheo trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, sẽ giải thoát tâm chưa được giải thoát, hay sẽ đưa đến chấm dứt các lậu hoặc chưa được đoạn tận, hay đạt được vô thượng an ổn khỏi các khổ ách chưa đạt được.

 

When this was said, Dasama the householder from Atthakanagara said to Ven. Ananda,
-"Venerable Ananda, just as if a man seeking a single opening onto treasure were all at once to come upon eleven openings onto treasure, in the same way I — seeking a single doorway to the Deathless — have all at once come to hear of eleven doorways to the Deathless. And just as if a man whose house had eleven doors could take himself to safety by means of any one of those doors, in the same way I can take myself to safety by means of any one of these eleven doors to the Deathless. Venerable sir, when sectarians search for a teacher's fee for their teachers, why shouldn't I pay homage to Ven. Ananda?"


Khi nghe nói vậy, gia chủ Dasama, dân ở thành Atthaka thưa với Tôn giả Ànanda :
- Thưa Tôn giả Ànanda, ví như một người t́m một cái cửa vào chỗ chôn cất kho báu, trong một lúc, t́m ra được mười một cái cửa. Cũng vậy, thưa Tôn giả, trong khi đi t́m một cửa bất tử, trong một lúc, con t́m ra mười một cái cửa bất tử. Ví như, thưa Tôn giả, trong một ngôi nhà chỉ có một cái cửa, và nhà ấy bị cháy, người ấy chỉ có thể ra bằng một cửa để có thể được an toàn cho ḿnh. Cũng vậy, thưa Tôn giả, với mười một cửa bất tử này, con có thể tạo được sự an toàn, cho con với chỉ một cửa bất tử. Thưa Tôn giả, các ngoại đạo này sẽ t́m cầu tài sản của sư cho sư, tại sao con lại không đảnh lễ Tôn giả Ananda ?

 

So Dasama the householder from Atthakanagara, having assembled the community of monks from Vesali and Pataliputta, with his own hands served & satisfied them with refined staple & non-staple foods. He presented a pair of cloths to each monk, and a triple robe to Ven. Ananda. And, for Ven. Ananda, he had a dwelling worth five hundred [kahapanas].


Rồi gia chủ Dasama, dân ở thành phố Atthaka mời họp các Tỷ-kheo chúng ở Vesàli và Pàtaputta, với các món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm, tự tay dâng cúng cho đến khi chúng Tăng được thỏa măn, và mỗi Tỷ-kheo cúng một đôi y. Nhưng riêng đối với Tôn giả Ànanda, vị ấy cúng ba y đầy đủ và xây dựng một ngôi tinh xá giá trị 500 đồng tiền.

 

Notes

1. Samyojana: self-identity views, grasping at precepts & practices, uncertainty, sensual passion, and irritation.

2. The east.

 

See also: AN IX.36.